Đầu thế kỷ XX, Việt Nam chìm trong ách thống trị khắc nghiệt của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai. Nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, bị bóc lột tàn bạo, đời sống lầm than. Nhiều phong trào yêu nước như Cần Vương (1885–1896), khởi nghĩa Yên Thế (1884–1913), Đông Du của Phan Bội Châu (1905–1908), hay Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) dù thể hiện tinh thần bất khuất nhưng đều thất bại do thiếu đường lối đúng đắn và sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù. Trong bối cảnh đó, chàng thanh niên 21 tuổi Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19/5/1890 tại Nam Đàn, Nghệ An, với lòng yêu nước sâu sắc và sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, nhận ra rằng Việt Nam cần một con đường cách mạng mới, phù hợp với xu thế thời đại.
Năm 1911, sau khi rời quê nhà và đi bộ từ Phan Thiết đến Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành quyết định sang phương Tây để tìm hiểu bản chất của “khai hóa” mà thực dân rêu rao. Ngày 5/6/1911, tại bến Nhà Rồng, dưới cái tên Văn Ba và làm phụ bếp trên con tàu Amiral Latouche-Tréville của hãng Chargeurs Réunis, Người rời Tổ quốc, bắt đầu hành trình 30 năm đầy gian khó. Theo tài liệu từ Bảo tàng Hồ Chí Minh, quyết định này không chỉ là bước ngoặt cá nhân của Nguyễn Tất Thành mà còn là khởi đầu cho một con đường cách mạng mang tính lịch sử, đưa Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lý Việt Quang, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, nhận định: “Việc chọn sang phương Tây là một tầm nhìn chiến lược, giúp Nguyễn Tất Thành tiếp cận những tư tưởng tiến bộ, từ đó xây dựng nền tảng cho cách mạng Việt Nam.”
Ngày 5/6/1911, từ bến Nhà Rồng – Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành lên tàu Latouche-Tréville ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Từ năm 1911 đến 1941, Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đi qua gần 30 quốc gia trên các châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Người làm nhiều nghề để mưu sinh, từ phụ bếp, thợ chụp ảnh, quét tuyết đến viết báo, nhưng tâm trí luôn hướng về mục tiêu giải phóng dân tộc. Tại Pháp, Anh, Mỹ – những trung tâm của chủ nghĩa đế quốc – Người chứng kiến sự bất công không chỉ ở các thuộc địa mà ngay cả với người lao động ở chính quốc. Những trải nghiệm này giúp Người nhận ra bản chất áp bức của chủ nghĩa thực dân, như câu hỏi nổi tiếng của Người: “Tại sao người Pháp không ‘khai hóa’ đồng bào họ trước khi đi ‘khai hóa’ chúng ta?”
Năm 1919, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Versailles, đòi quyền tự do và bình đẳng cho người Việt, nhưng bị các cường quốc phớt lờ. Sự kiện này càng củng cố quyết tâm tìm một con đường cách mạng triệt để hơn. Đến năm 1920, sau khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người tìm thấy ánh sáng cho con đường cứu nước. Người viết: “Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là con đường giải phóng chúng ta!” Từ đó, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và sau này là Quốc tế Cộng sản, trở thành nhà hoạt động quốc tế xuất sắc. Theo các tài liệu lịch sử từ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Người xác định con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, trở thành kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 5/6/1911, tại bến Nhà Rồng, người thanh niên Nguyễn Tất Thành lên tàu Latouche-Tréville, quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, mở đầu hành trình vĩ đại vì độc lập dân tộc. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Sau 30 năm bôn ba, Nguyễn Ái Quốc trở về nước ngày 28/1/1941, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Dưới sự dẫn dắt của Người, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Con đường cách mạng mà Người lựa chọn đã được thực tiễn chứng minh, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, tự chủ. Năm 1990, UNESCO thông qua Nghị quyết 24C/1865, vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới, ghi nhận những cống hiến của Người không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội toàn cầu. Tư tưởng Hồ Chí Minh, kết tinh từ truyền thống văn hóa Việt Nam và tinh hoa nhân loại, đã trở thành di sản tinh thần quý báu, được bạn bè quốc tế trân trọng.
Hành trình của Hồ Chí Minh không chỉ là câu chuyện về một lãnh tụ mà còn là bài học về lòng yêu nước, ý chí kiên cường và tầm nhìn vượt thời đại. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Người lựa chọn “không chỉ giải phóng dân tộc mà còn đáp ứng khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam hôm nay.” Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, từ một quốc gia nghèo nàn trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh ở khu vực, minh chứng cho sự đúng đắn của con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra.
Kỷ niệm 114 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2025), Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam một lần nữa khẳng định quyết tâm tiếp tục con đường mà Người đã chọn. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là ngọn lửa soi đường, thúc đẩy Việt Nam hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hành trình từ bến Nhà Rồng năm ấy không chỉ là ký ức lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng bất tận, nhắc nhở mỗi người Việt Nam về trách nhiệm gìn giữ và phát huy di sản của Người trong công cuộc xây dựng đất nước.
Tác giả: Hồng Nhung
Nguồn tin: Tổng Hợp
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn